Kim hạc luận thời Chiến Quốc
BÁ CƠ XUẤT GIÁ SANG TỀ
Lược truyện: (Tả truyện Chiến Quốc)Năm thứ 15 Lỗ Hi Công (645 TCN) Tần và Tấn đánh nhau ở Hàn Nguyên, Tần đại thắng, bắt Tấn Huệ Công làm tù binh. Phu nhân của Tần Mục Công là Bá Cơ, giữa Bá Cơ và Tấn Huệ Công tuy không cùng mẹ, nhưng đều là con của Tấn Hiến Công. Bá Cơ không nỡ nhìn thấy anh em cùng cha khác mẹ bị sỉ nhục, nói với chồng là nếu giải Huệ Công và hai con về kinh đô như tù binh thì Huệ Công và thái tử Doanh Hoằng, công chúa Giản Bích sẽ cùng tự sát. Mục Công nghe như vậy bất đắc dĩ phải giảng hòa với Tấn, thả Huệ Công về lại nước Tấn, nhưng khống chế binh quyền. Số phận bi thảm của Tấn đế, mới khiến người ta nhớ lại quẻ bói của Hiến Công (vua cha) xem khi dự định gả con gái Bá Cơ sang Tần.

“Bất cát, kỳ dao viết, Sĩ Khuê dương diệc vô huyết dã, nữ thừa khuông diệc vô huống dã”
(Không lành, lời bói nói con trai giết dê không có máu, con gái mang giỏ không có đồ ban thưởng)
Luận lại sự kiện trên tân biên dựa quẻ Hiến Công chiếm là quy muội biến khuê kết hợp với năm Tần – Tấn đánh nhau 645 TCN để phân tích
Năm 645 TCN ứng năm Bính tý
Bính tý niên
Dụng | o___ ___ | Tuất (Phụ) | ________ | Tỵ (tổ tiên) |
___ ___ | Thân (Huynh) | ___ ___ | ||
________ | Ngọ (Tổ tiên) | ________ | ||
èè | ||||
Thể | ___ ___ | Sửu (Phụ) | ___ ___ | |
________ | Mẹo (Tử) | ________ | ||
________ | Tỵ (Tổ tiên) | ________ | ||
Quy muội (Quy hồn)
| Khuê |
Hào từ viết:
“Về nhà chồng gặp việc không như ý. Hư vị, hư danh”
Phân tích:Xem hôn sự gã con gái chiếm quy muội tượng con gái về nhà chồng chắc chắn con gái Bá Cơ sẽ được gã sang Tần (Hổ kí tế)
Thể (đoài) kim khắc xuất dụng (chấn) mộc
Biến dụng (ly) hỏa quay lại khắc thể
Với năm bính tý là thái tuế thì thể bị hưu (sinh xuất) dụng lôi tướng kéo theo biến dụng ly (bính ngọ) hạp can quay lại khắc thể đang vô lực
Thể (đoài) khi bị biến dụng khắc không đủ sức cản ngăn hoặc can thiệp với dụng lôi.
Kết luận:
Xem hôn nhân đoài tượng cho nữ, lôi là chồng. Lấy chồng theo về nhà chồng bình thường hạnh phúc khá tốt nhưng khi hai nước bất hòa (khuê) xảy ra chiến tranh (chấn biến ly, sấm lửa giao thoa tượng đánh nhau) hiện tượng cõng rắn cắn gà nhà. Mà nước Tần lại là nước láng giếng phía tây của nước Tấn nên họa mới thực sự đáng ngại (thể đoài) mặc dù sau khi xâm lượt xong lại rút về thả vua Tấn ra (quẻ quy hồn).
Hào động là hào 6, hào cuối cùng mà cùng thì tắc phục (cùng đường quay trở lại) tức bắt sau đó sẽ thả nhưng thả ở dạng tước bỏ binh quyền
Khi thể bị tử do biến dụng ly khắc thì dụng cũng bị hưu, dụng ứng với lôi (con trai trưởng) vợ chồng vua Tấn được tha nhưng con trai trưởng bị giữ lại giam lỏng (thái tử Ngữ bị giữ lại làm con tin)
Đến năm nhâm ngọ (7 năm sau) biến dụng cực vượng làm thể, biến dụng vô lực cả con trai lẫn vua cha (Tấn Huệ Công lẫn thái tử Ngữ đều mất) sau đó nhà Tấn có vua mới nạn thoát hoàn toàn
Nhờ Bá Cơ van xin mà vua Tấn Huệ Công thoát nạn nhưng chỉ thỏa mãn một phần (rối rắm tháo gỡ không như ý)
Dụng thần (tử) mẹo hưu với lệnh chủ niên (bính tý). Năm tý nhị hợp sửu của cừu thần khử xung tiết thần ngọ (tổ tiên). Cừu thần lại động hóa tiết thần tỵ (tổ tiên) hóa thoái. Tháng tỵ (nhị hợp kỵ thần thân) năm tý sự nghiệp dòng họ bên cha của Bá Cơ (tổ tiên) bị xâm lấn tàn phá. Mặc dù sau đó rút quân thả người (hóa thoái) nhờ sự can thiệp của Bá Cơ (dụng thần sinh tiết thần) nhưng mất mát hao tổn lớn. Đến năm ngọ nhị hợp mùi khử xung cừu thần sửu, hóa tiến (tỵ xung ngọ) nước Tấn mới hoàn toàn độc lập với triều đại vua mới.