Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

BÁ CƠ XUẤT GIÁ SANG TỀ

Kim hạc luận thời Chiến Quốc
BÁ CƠ XUẤT GIÁ SANG TỀ
Lược truyện: (Tả truyện Chiến Quốc)

Năm thứ 15 Lỗ Hi Công (645 TCN) Tần và Tấn đánh nhau ở Hàn Nguyên, Tần đại thắng, bắt Tấn Huệ Công làm tù binh. Phu nhân của Tần Mục Công là Bá Cơ, giữa Bá Cơ và Tấn Huệ Công tuy không cùng mẹ, nhưng đều là con của Tấn Hiến Công. Bá Cơ không nỡ nhìn thấy anh em cùng cha khác mẹ bị sỉ nhục, nói với chồng là nếu giải Huệ Công và hai con về kinh đô như tù binh thì Huệ Công và thái tử Doanh Hoằng, công chúa Giản Bích sẽ cùng tự sát. Mục Công nghe như vậy bất đắc dĩ phải giảng hòa với Tấn, thả Huệ Công về lại nước Tấn, nhưng khống chế binh quyền. Số phận bi thảm của Tấn đế, mới khiến người ta nhớ lại quẻ bói của Hiến Công (vua cha) xem khi dự định gả con gái Bá Cơ sang Tần.

Read MoreTấn Hiến Công chiếm được quẻ Quy muội biến Khuê. Sử Tô (Sử quan của Tấn) đoán quẻ như sau:
“Bất cát, kỳ dao viết, Sĩ Khuê dương diệc vô huyết dã, nữ thừa khuông diệc vô huống dã”
(Không lành, lời bói nói con trai giết dê không có máu, con gái mang giỏ không có đồ ban thưởng)

Luận lại sự kiện trên tân biên dựa quẻ Hiến Công chiếm là quy muội biến khuê kết hợp với năm Tần – Tấn đánh nhau 645 TCN để phân tích
Năm 645 TCN ứng năm Bính tý
Bính tý niên

Dụngo___    ___Tuất (Phụ)________Tỵ (tổ tiên)
___    ___Thân (Huynh)___    ___
________Ngọ (Tổ tiên)________
èè
Thể___    ___Sửu (Phụ)___    ___
________Mẹo (Tử)________
________Tỵ (Tổ tiên)________
Quy muội (Quy hồn)
Khuê

Hào từ viết:
“Về nhà chồng gặp việc không như ý. Hư vị, hư danh”
Phân tích:
Xem hôn sự gã con gái chiếm quy muội tượng con gái về nhà chồng chắc chắn con gái Bá Cơ sẽ được gã sang Tần (Hổ kí tế)
Thể (đoài) kim khắc xuất dụng (chấn) mộc
Biến dụng (ly) hỏa quay lại khắc thể
Với năm bính tý là thái tuế thì thể bị hưu (sinh xuất) dụng lôi tướng kéo theo biến dụng ly (bính ngọ) hạp can quay lại khắc thể đang vô lực
Thể (đoài) khi bị biến dụng khắc không đủ sức cản ngăn hoặc can thiệp với dụng lôi.
Kết luận:
Xem hôn nhân đoài tượng cho nữ, lôi là chồng. Lấy chồng theo về nhà chồng bình thường hạnh phúc khá tốt nhưng khi hai nước bất hòa (khuê) xảy ra chiến tranh (chấn biến ly, sấm lửa giao thoa tượng đánh nhau) hiện tượng cõng rắn cắn gà nhà. Mà nước Tần lại là nước láng giếng phía tây của nước Tấn nên họa mới thực sự đáng ngại (thể đoài) mặc dù sau khi xâm lượt xong lại rút về thả vua Tấn ra (quẻ quy hồn).
Hào động là hào 6, hào cuối cùng mà cùng thì tắc phục (cùng đường quay trở lại) tức bắt sau đó sẽ thả nhưng thả ở dạng tước bỏ binh quyền
Khi thể bị tử do biến dụng ly khắc thì dụng cũng bị hưu, dụng ứng với lôi (con trai trưởng) vợ chồng vua Tấn được tha nhưng con trai trưởng bị giữ lại giam lỏng (thái tử Ngữ bị giữ lại làm con tin)
Đến năm nhâm ngọ (7 năm sau) biến dụng cực vượng làm thể, biến dụng vô lực cả con trai lẫn vua cha (Tấn Huệ Công lẫn thái tử Ngữ đều mất) sau đó nhà Tấn có vua mới nạn thoát hoàn toàn
Nhờ Bá Cơ van xin mà vua Tấn Huệ Công thoát nạn nhưng chỉ thỏa mãn một phần (rối rắm tháo gỡ không như ý)
Dụng thần (tử) mẹo hưu với lệnh chủ niên (bính tý). Năm tý nhị hợp sửu của cừu thần khử xung tiết thần ngọ (tổ tiên). Cừu thần lại động hóa tiết thần tỵ (tổ tiên) hóa thoái. Tháng tỵ (nhị hợp kỵ thần thân) năm tý sự nghiệp dòng họ bên cha của Bá Cơ (tổ tiên) bị xâm lấn tàn phá. Mặc dù sau đó rút quân thả người (hóa thoái) nhờ sự can thiệp của Bá Cơ (dụng thần sinh tiết thần) nhưng mất mát hao tổn lớn. Đến năm ngọ nhị hợp mùi khử xung cừu thần sửu, hóa tiến (tỵ xung ngọ) nước Tấn mới hoàn toàn độc lập với triều đại vua mới.

xem đường công danh

XEM CÔNG DANH
Tháng tuất, ngày quý tỵ
Xem mùa đông quyết định lên chức có được không?

Chiếm quẻ tiết biến nhu
Read More

Thể
___    ___Tý (Huynh)___    ___
________Tuất (Tổ tiên)________
___    ___Thân (Phụ)___    ___
-->-->
Dụngo___    ___Sửu (Tổ tiên)________Thìn (Tổ tiên)
________Ngọ (Phu thê)________
________Tỵ (Tử)________
Tiết (Thiên tọa)
Nhu

Hào từ viết:
Điều tiết theo kiểu tự thủ chờ đợi. Không lỗi
Phân tích:
-        Xem công danh gặp tiết (chừng mực) ứng với thiên tọa (ngồi chờ) kết hợp với hổ là di nên giai đoạn này vẫn giữ nguyên chưa có biến động.
-        Thể (khảm) thủy hưu tù với lệnh chủ nên mặc dù được dụng (đoài) kim tướng nguyệt, tử nhật tương sinh cũng vô dụng. Biến dụng (càn) kim lại một lần nữa tương sinh cho thể khảm

Kết luận:
-        Quẻ tiết hạp cho mùa đông chắc chắn cuối năm có sự thay đổi
-        Toàn quái 2 kim sinh cho 1 thủy khảm ứng với nhâm tý quý nên tháng tý sẽ thăng tiến
-        Quẻ tiết gồm thủy (6) cộng với ly (2) tức 8 tháng sau sẽ nhận nhiệm vụ mới (tháng chạp)


-        Dụng thần (tổ tiên) sửu đang vượng tướng với lệnh chủ nhưng hóa mộ ở thìn. Mà thìn lại xung với tuất của nguyệt (giai đoạn này vẫn trụ yên). Đến tháng tý nhị hợp sửu hóa thành kim cục làm cho thủy vượng kéo theo mộc tướng khắc được biến dụng thìn, từ đó dụng mới thực sự mạnh mẽ. Tháng tý (11) có quyết định lên chức và tháng sửu (12) nhận nhiệm vụ mới
Mạn bàn:
-        Đây cũng là ví dụ trích trong Tăng san dịch, với lập luận dụng thần mộ động hóa tiến nhập mộ. Kinh quá!! đấp đến hai mộ chắc tốn tiền lắm đây.
Để xem các ví dụ minh họa khác của Dịch học tân biên, sách sắp xuất bản các bạn nhớ đón đọc

Kim hạc luận sự kiện thời Chiến Quốc

Kim hạc luận sự kiện thời Chiến Quốc

....Năm thứ 22 Lỗ Trang Công (627TCN) nước Tần xảy ra nội loạn, Thái tử Ngự khấu bị giết hại Công tử Hoàn (Kính Trọng) chạy trốn sang Tề được vua Tề Hoàn Công tín nhiệm cho lập nghiệp cư trú ở nước mình. Con cháu Kính Trọng mở mang thế lực mạnh dần lên khi ở nước Tề. Đến đời thứ 8 cháu Kính Trọng là Điền Hòa được vua Tề phong làm lãnh chúa ở đất Điền. Đến năm 391 TCN Điền Hòa truất phế vua Tề Khang Công, 5 năm sau đó (386 TCN) tự lập làm vua và được Chu Thiên Tử thời bấy giờ là An Vương buộc phải phong cho Điền Hòa chức Tề hầu. Từ giai đoạn đó trở về sau sử gọi là Điền Tề kimhactv

Read More.... - Trở lại việc Công tử Kính Trọng là con thứ của vua Trần Lệ Công thuở thiếu thời vua cha có nhờ sử quan dựa bát tự năm tháng giờ sanh xem cuộc đời của Kính Trọng. Chiếm được quẻ Quán biến Bỉ. Dựa vào tượng lý quẻ sử quan đã đoán chính xác tương lai của Kính Trọng phải lưu vong khi còn nhỏ
....- Dựa vào những năm xảy ra biến cố liên quan đến Kính Trọng cũng như con cháu ông về sau, quẻ chính, quẻ biến, … Tân biên luận nghiệm tả truyện Kính Trọng, công tử chạy trốn như sau:kimhactv
Năm chạy trốn  627 TCN là năm Giáp Ngọ

Dụng
________Mẹo (Tử)________
________Tỵ (Tổ tiên)________
o___    ___Mùi (Phụ)________Ngọ (Tổ tiên)
==>
Thể___    ___Mẹo (Tử)___    ___
___    ___Tỵ (Tổ tiên)___    ___
___    ___Mùi (Phụ)___    ___
Quán (Thiên tiền bộ càn)
Bỉ (Lục hạp)

Hào từ viết:
“Thanh lý (nội bộ) đi vào bế tắc, lợi ra ngoài tìm người giúp”
Phân tích:
.... - Gió đi trên đất lây động khắp nơi, quẻ nằm ở thiên tiễn tức đi không định hướng
.... - Dụng (tốn) mộc khắc nhập thể (khôn) thổ
....- Biến dụng (càn) kim làm thể bị sinh xuất.kimhactv
.... - Nếu chọn năm giáp ngọ (xảy ra sự kiện) làm lệnh chủ sẽ thấy dụng hưu, thể tướng (hỏa vượng thổ tướng) sinh xuất mạnh cho biến dụng càn (ngọ cũng nhị hợp với mùi ở quẻ khôn)kimhactv
Kết luận:
....- Lời hào từ cho thấy do bị ảnh hưởng từ việc thanh lý nội bộ đấu đá (dụng tốn người trong nhà) giành ngôi kế vị (quẻ biến càn tức vua, thủ lĩnh) đi vào bế tắc khiến thể (bản thân Kính Trọng) phải lưu vong bỏ xứ mới toàn mạngkimhactv
....- Năm ngọ cũng là năm xảy ra biến cố
.... - Quẻ chính rất xấu nhưng gặp quẻ biến là lục hạp kết hợp với tượng lý hào từ ra ngoài gặp quý nhân nên việc bỏ sang nước Tề lại thành tốt (được yêu mến, nâng đỡ trọng dụng)kimhactv
Toàn quái ba khôn sinh xuất cho một dụng (càn) kim mà càn ứng với vua, thủ lĩnh nên khẳng định con cháu về sau của Kính Trọng sẽ được làm vua.kimhactv
.... - Khôn ứng với đất, điền, mẹ nạp số là 8 nên 8 đời sau (8 bà mẹ liên tiếp) sẽ sinh một đứa con có mạng làm vua và tước hiệu, tên vị vua này gắn với bộ thổ ứng Điền
.... - Năm xưng vương phải ứng với các năm mùi khôn thân (khôn sinh càn). Thực tế diễn ra đúng như quẻ. Năm ất mùi 386 TCN Điền Hòa lên ngôi, năm sau đó (Bính thân) được vua Chu phong tước Điền Tề Vương
.... - Dụng thần (tổ tiên) tỵ vượng lệnh chủ niên, năm ngọ lại nhị hợp với tiết thần (phụ) mùi, làm tiết thần động mạnh hơn sinh xuất dụng thần hóa thoái. Năm ngọ xảy ra chuyện bản thân phải tự bỏ trốn (tiết thần nói lên bản thân chủ động) sang xứ khác mới bảo toàn tính mạngkimhactv
.... - Đến năm ứng giáp mẹo ất (dụng) với địa chi cho mùi (nhị hợp ngọ) làm dụng thần hóa tiến (tỵ sang ngọ) con cháu khôi phục lại vương quyền (thực tế đúng năm ất mùi Điền Hòa cướp ngôi)

HÌNH BÁT QUÁI 24 PHƯƠNG VỊ

CHƯƠNG XI: HÌNH BÁT QUÁI 24 PHƯƠNG VỊ

BÁT QUÁI CÀN
BÁT QUÁI KHẢM
BÁT QUÁI CẤN
BÁT QUÁI CHẤN
BÁT QUÁI TỐN
BÁT QUÁI LY
BÁT QUÁI KHÔN
BÁT QUÁI ĐOÀI

Nguồn gốc chiết tự - Tính danh học

Nguồn gốc chiết tự - Tính danh học :
Định nghĩa :
..... + Chiết: Bẻ gãy.
..... Tự : Chữ.
..... Môn này xuất phát từ Trung Quốc nơi khai sinh chữ viết tượng hình . Với việc phân tích một chữ ra nhiều thành phần , giải thích ý nghĩa mỗi phần sau đó tổng hợp đưa ra ý nghĩa cho toàn chữ nhằm xét đoán cát hung sự việc cần hỏi . Môn này không có tài liệu sách vở để lại . Việc xét đoán chủ yếu bằng cảm tính nên ngay tại Trung Quốc chỉ truyền lại một vài câu chuyện xem chiết tự của một vài cá nhân nào đó, trong đó nỗi bật là tiên sư tên Tạ Thạch đời nhà Tống giỏi về xem chiết tự qua những câu chuyện ông xem và đoán chính xác về vua Tống Cao Tông (Bí bản trắc tự toàn thư). kimhactv
.....Đến thời thế kỉ 20 , ở Trung Quốc Đài Loan xuất hiện thêm môn tính danh học. Lý thuyết của môn này dựa vào ngũ hành âm dương bát quái cửu cung cửu số theo Hà Đồ Lạc Thư ( mô hình rùa) để tìm thiên ,địa , nhân, tổng cách qua số nét chữ viết ( kiểu viết Phồn thể ) của họ tên từ đó xét đoán việc tốt xấu ( Tối tân tính danh học – Hứa Triệu Long ).kimhactv
Kết Luận : Khuyết điểm của chiết tự tánh danh học :
..... _ Phục vụ chủ yếu cho người Trung Quốc với kiểu chữ viết cổ nên không áp dụng được cho những ngôn ngữ khác , ngay cả những nước bị ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc trong thời kỳ đô hộ ( có Việt Nam .
..... _ Kiểu chữ Hán hoặc dịch qua Nôm Việt mỗi chữ cũng mang nhiều ý nghĩa khi ghép lại ( có khi là động từ , tính từ , trạng từ , danh từ , cụm danh từ . Tất cả đều cho ý nghĩa cũng như số nét khác nhau khi ghép lại .Việc sử dụng ý nghĩa nào đúng cho họ tên chữ lót cho ra những kết quả khác nhau .kimhactv
..... _ Họ một con người xuất phát từ nhiều đặc điểm , lịch sử ,tôn giáo , đức tin , giai cấp , chế độ hoặc ghép đôi ( Họ đôi ) . Còn đối với tên thì lại càng phức tạp hơn có khi là do sở thích , do thần tượng một ai đó , do kĩ niệm , để dễ nhớ , dễ nuôi ...vv. Vì vậy ý nghĩa của họ và tên viết , suy cho đúng cũng đã là khó có khi nó không mang một ý nghĩa gì hết , điều này gây khó khăn cho người nghiên cứu môn này khi đưa vào xét đoán .kimhactv
..... _ Ngay cả tại Trung Quốc môn này người ta cũng phải kết hợp với Bát tự , Dịch học để phối hợp luận mà vẫn chưa có một trường phái nào khẳng định mình đúng .kimhactv
..... _ Trong thực tế rất nhiều người họ tên chữ lót trùng nhau nhưng người làm quan , người bần hàn điều này lý giải như thế nào ?
 
 KIMHACTV 09/2007

chiết tự KH

Chiết tự KH
Là một môn khó không chỉ phải chỉ riêng với bản thân tôi mà đại đa số những nhà nghiên cứu ưa thích môn này đều gặp trở ngại về cơ sở luận . Trên tinh thần sáng tạo dựa vào kiến thức âm dương ngũ hành bát quái , tôi mạnh dạn đột phá vào môn này với các tiêu chí như sau :
+Phải ứng dụng được cho mọi ngôn ngữ .
+Có cơ sở luận logic mạch lạc để chuẩn hóa.
+Phù hợp với ngành nghề ,cá tính của đương số mà không tách rời số phận đã an bài ( Thuận thiên ).
+Tên thương hiệu , logo , sản phẩm , đơn vị , hàng hóa ...vv phải phù hợp với bát quái ngành nghề .

Kết luận :

......- Với bốn yêu cầu trên , công trình nghiên cứu môn này có thể viết hoặc trải nghiệm trong một thời gian dài. Mong học giả gần xa đóng góp ủng hộ .
 
 KIMHACTV 03/2010

mệnh vận học đông phương


www.kimhactv.com   vận hành song song  www.tuvikimhac.com
info@tuvikimhac.com

 
Add: Phòng 08, Lầu 10, Lô 3B Chung cư Phú Thọ (Đường Lữ Gia) , Phường 15, Quận 10, TP.HCM
Handphone: 0903 850 856
Hầu như toàn bộ các môn nghiên cứu về mệnh vận học đều xuất phát từ Đông Phương chủ yếu là Trung Hoa và các nước lân cận bị ảnh hưởng về văn hóa lịch sử hoặc sử dụng kiểu viết tượng hình (thời kỳ đô hộ) . Nó đều chung một gốc là khoa âm dương ngủ hành bát quái, được hệ thống hóa từ bộ chu dịch xuất hiện cách đây hơn 3000 năm . Mặc dù được gom chung là mệnh vận học, nhưng nó được phân ra nhiều thuật gồm :

- -Sơn: là phép tu tiên gồm ba bộ môn tu luyện : Huyền điển – Dưỡng sinh – Tu mật.
. - Y: là chữa bệnh gồm 3 phương pháp : Phương tể ( bốc thuốc ) , Châm cứu , Linh trị ( chữa bệnh bằng ý niệm ).
. -Mệnh: là môn toán theo số có 3 khoa : khoa Tử bình ( số bát tự ) , khoa Tinh tôn , khoa Tử Vi đẩu số .
. -Bốc: là môn bói toán dựa vào tinh linh để hỏi vũ trụ , tự nhiên , sự việc .... có 4 môn : Bốc dịch – Lục nhâm – Kỳ môn –    Thái ất.
..-Tướng: là môn xem hình thế , gồm 3 loại : Xem vân tay , diện mạo , nhân dáng  - Xem nhà cửa ( dương cơ) – Xem âm phần ( địa lý phong thủy ) – Xem tướng trời ( khoa thiên văn ).
Lưu ý : Phong thủy , dương cơ tính vận mệnh cho cả một dòng họ hoặc vài đời con cháu.
--Y đối với các khoa phương tễ, châm cứu , linh trị thì đứng riêng ra một ngành , vì vậy khi chuyển vào mệnh vận học chỉ còn lại bắt mạch , thái tố bây giờ cũng gần như thất truyền.
..
-Khoa Thiên văn , Thái ất thần kinh ở trên tầng cao tính vận nước . Thiên văn  đã thất truyền . Thái ất nay vẫn còn sách lưu truyền nhưng do sách còn nhiều chỗ in sai nên đọc rất khó hiểu .
....Bàn về mệnh vận học đông phương từ ngàn xưa đã phân định các môn học theo mức độ, tầm ảnh hưởng như sau:
.Nhất mệnh, nhì vận, tam phong thủy, tứ âm công (mồ mã), ngũ đọc thư (người đọc sách, thầy, nhà nghiên cứu).
Phân tích:
.......Mệnh là số, mà số tức là đã có sự sắp đặt sẵn của thiên định (ảnh hưởng trực tiếp từ phúc hoạ tiền kiếp di truyền theo luật nhân quả). Mệnh quyết định tổng thể toàn cục của đời người. Diễn biến từng giai đoạn có thể thây đổi, nhưng toàn cục thì không đổi. Các môn nghiên cứu về mệnh gồm: Tử vi, Tử bình, Tướng, …
.......Vận là những diễn biến xảy ra tương ứng với một giai đoạn nhất định như ngày (nhật), tháng (nguyệt), năm (niên), đại hạn (10 năm). Các môn nghiên cứu về hạn gồm: Tử vi, Tử bình, Dịch học, Tướng...
.......Phong thủy nghiên cứu về những diễn biến xảy ra trong một ngôi gia qua sự tác động của khí từ ánh sáng, gió, nước, môi trường, … đối với địa mạch của cuộc đất cư trú. Qua hình thế, phương vị bố trí phòng ốc, cửa ngõ, mà luận ngũ hành âm dương phân định tốt xấu.Các môn nghiên cứu: Địa lý dương trạch học
.......Âm công từ hình thế có sẵn trong tự nhiên qua mạch dẫn tìm về nơi có sơn triều thủy tụ, có chứng ứng qua long hổ chu tước mà khoanh vùng mạch huyệt để xây mộ an táng người chết. Các môn nghiên cứu: Địa lý âm trạch học
.......Đọc thư là những người nghiên cứu về khoa học huyền bí thông qua các môn liên quan đến  mệnh, vận học đông phương. Có người đem ra ứng dụng để kiếm sống (làm thầy), có người chỉ thuần là nhà nghiên cứu... Dù là đối tượng nào nhưng tất cả đều không thể thây đổi được số mệnh (truyện kể về Tả Ao Tiên Sinh). Chính vì đặc điểm này mà đọc thư đứng ở hàng cuối cùng qua sự phân cấp.
Với mệnh vận học Đông Phương thưở nhỏ tôi không hề biết dù chỉ là khái niệm. Phải đến mãi gần năm ba mươi tuổi sau khi trải qua một biến cố lớn trong đời về tình cảm đi đôi với công danh sự nghiệp , tôi mới tìm đến với sách vở viết về mệnh vận học, cụ thể là môn tử vi . Tự mò mẩm nghiên cứu trước là xem cho mình để tìm sự lý giải qua số tại sao mình gặp vận xấu, sau là xem tổng thể cuộc đời . Khi biết cuộc đời là do số mạng định sẵn , tôi cũng tự phần nào quẵng gánh bớt đi những phiền muộn. Có lẽ cơ duyên đã gắn tôi với nghiệp làm thầy từ muôn kiếp, nên ngoài việc tự coi cho mình , cho người thân, sau đó là mở rộng dần cho người ngoài . Càng xem càng thông nên với hơn 20 năm trải nghiệm qua khách, tôi đã gầy dựng cho mình một chút thương hiệu trong lòng người xem . Từ môn Tử Vi khởi nghiệp ban đầu , tôi tiếp tục nghiên cứu qua một số môn khác như Dịch học, Phong thủy, Chiết tự tính danh học . Tất cả bốn môn đều được kiểm chứng qua thực tế, sau đó lấy kết quả quay lại cũng cố , bổ sung lý thuyết .
Để tri ân với đời, với những tổ sư sáng lập nên bốn môn trên, tôi xin đem toàn bộ những tri thức kinh nghiệm mình đã thu thập được trong suốt quá trình hành nghề viết lại cho từng môn . Tôi sẽ cố gắng sắp xếp theo hệ thống luận mạch lạc chỉnh chu nhằm cố gắng đưa những môn được người đời cho là huyền bí, hé mở dần trước ánh sáng khoa học .
 



KIMHAC 03/10